Bảo mật bằng nhận diện mắt
31/08/2013 00:39
Một ngày kia, bạn hốt hoảng khi không nhớ ra mật khẩu để mở chiếc máy tính thân yêu, điều đó sẽ không xảy ra nếu chiếc máy tính của bạn áp dụng công nghệ bảo mật sinh trắc học.
Một trong số những công nghệ khá phát triển ngày nay là nhận diện bằng mắt, hãy cùng tìm hiểu với eChip Mobile.
Không thể phủ nhận rằng mắt là cơ quan có cấu tạo tinh vi nhất của cơ thể người. Nó lưu giữ mọi hình ảnh và gửi về não bộ để xử lý thông tin. Thành phần chính của mắt là nhãn cầu, gồm vỏ nhãn cầu nơi chứa giác mạc và củng mạc; và lòng nhãn cầu chứa mống mắt (Iris) và đồng tử. Thủy tinh thể nằm ở trung tâm sau đồng tử, và nằm sau cùng là võng mạc (Retina). Các nghiên cứu về nhận diện mắt đều tập trung vào mống mắt và võng mạc.
Năm 1936, bác sỹ nhãn khoa Frank Burch đã đề xuất khái niệm nhận dạng bằng mống mắt. Nhưng phải mãi đến năm 1985, hai giáo sư Leonard Florn (Đại học New York) và Aran Safir (Đại học Connecticut) mới được cấp bằng sáng chế liên quan đến “Công nghệ nhận diện mống mắt”. Ngay sau đó, tiến sỹ John Daugman (Đại học Harvard) đã được thuê để viết thuật toán nhận diện mống mắt. Với sự nỗ lực của cả ba, thử nghiệm nhận diện mống mắt được thực hiện bởi Cơ quan phòng thủ nguyên tử (DNA) của Mỹ vào năm 1995 đã thành công tốt đẹp.
Trong khi đó, ý tưởng về công nghệ nhận diện võng mạc đã được đưa ra trên một cuốn tạp chí Y học vào năm 1935. Khi công nghệ bắt kịp thời đại, ý tưởng này mới có cơ hội được triển khai và đến năm 1976, tập đoàn EyeDentify mới bắt đầu phát triển công nghệ này. Hiện tại, các bằng sáng chế liên quan đến hai công nghệ này đã được cấp cho nhiều công ty, tập đoàn với mục đích thương mại hóa.
Công nghệ nhận diện mắt
Quá trình nhận diện mống mắt được thực hiện bằng cách sử dụng máy chiếu bước sóng nhìn thấy được hoặc tia cận hồng ngoại vào mắt người. Khi máy quét chiếu vào mắt, máy tính sẽ xác định các vị trí gồm đồng tử, mống mắt, lông mi, mí mắt, qua đó tìm ra các tham số như tần số, biên độ, phi. Máy tính sẽ phân tích các thông số này và biên dịch thành các dòng lệnh.
Phương pháp nhận diện mống mắt được đánh giá là có độ chính xác cao so với các phương pháp nhận diện sinh trắc học khác, khi mống mắt có tới 266 điểm đặc trưng riêng biệt, so với chỉ 13 đến 60 điểm đặc trưng của các loại khác như vân tay, khuôn mặt, giọng nói. Hơn thế nữa, mắt người được cho là không thay đổi theo thời gian và môi trường. Thậm chí là sau phẫu thuật mắt hay đối với những người khiếm thị hoặc đeo kính, quét mống mắt không gây ảnh hưởng tới mắt hay bị suy giảm độ chính xác. Trong khi đó, quá trình nhận diện võng mạc cũng được thực hiện tương tự như nhận diện mống mắt. Điểm khác biệt ở đây là quá trình xử lý, khi các thông tin cần thu thập cho việc nhận diện võng mạc là các mạch máu.
Ứng dụng
Phương pháp nhận diện mắt được thực hiện khi các phương pháp nhận diện khác không thể thực hiện được như dấu vân tay bị mờ do lao động, giọng nói, khuôn mặt bị thay đổi. Ngoài ra, mặc dù võng mạc có thể bị thay đổi do các bệnh như tiểu đường, tăng nhãn áp, tuy nhiên về cơ bản võng mạc không thay đổi trong suốt cuộc đời con người. Các nhà khoa học tin tưởng rằng đây là phương pháp nhận diện có độ chính xác cao nhất với tỷ lệ sai sót chỉ là 1 trên 1 triệu với khả năng phân biệt được cả các cặp sinh đôi.
Điểm khó khăn khi triển khai phương pháp nhận diện võng mạc là chi phí cho trang thiết bị quá cao, quá trình nhận diện tốn thời gian và vì thế phương pháp này thường được ứng dụng trong các cơ sở nghiên cứu, khu vực quân sự, nơi có yêu cầu đặc biệt về bảo mật. Trong khi đó, phương pháp nhận diện mống mắt lại dễ dàng được triển khai trong nhiều lĩnh vực, ở nhiều nơi trên thế giới nhờ chi phí giá thành không quá cao. Nước Anh đang từng bước hoàn thành hệ thống nhận diện mống mắt để triển khai trong giai đoạn 2, trong khi các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất (UAE) đã triển khai hệ thống này trên toàn lãnh thổ từ năm 2001.
Kết
Cũng như các phương pháp nhận diện sinh trắc học khác, nhận diện mắt không tránh khỏi những ảnh hưởng do bệnh lý con người gây ra, như đục thủy tinh thể, loạn thị, khiến việc kiểm tra nhận diện thu được kết quả không chính xác. Đây là một phương pháp bảo mật được ứng dụng nhiều trong các lĩnh vực có yêu cầu bảo mật cao như ngân hàng, quân đội, chính phủ, tuy nhiên, con đường để phương pháp này được ứng dụng trong tất cả các lĩnh vực của cuộc sống vẫn còn rất xa xôi.
DARKLORD480
Mống mắt có tới 266 điểm đặc trưng riêng biệt, so với chỉ 13 đến 60 điểm đặc trưng của các loại khác như vân tay, khuôn mặt, giọng nói, nên nó được xem là công cụ nhận diện sinh trắc chính xác nhất.
Không thể phủ nhận rằng mắt là cơ quan có cấu tạo tinh vi nhất của cơ thể người. Nó lưu giữ mọi hình ảnh và gửi về não bộ để xử lý thông tin. Thành phần chính của mắt là nhãn cầu, gồm vỏ nhãn cầu nơi chứa giác mạc và củng mạc; và lòng nhãn cầu chứa mống mắt (Iris) và đồng tử. Thủy tinh thể nằm ở trung tâm sau đồng tử, và nằm sau cùng là võng mạc (Retina). Các nghiên cứu về nhận diện mắt đều tập trung vào mống mắt và võng mạc.
Năm 1936, bác sỹ nhãn khoa Frank Burch đã đề xuất khái niệm nhận dạng bằng mống mắt. Nhưng phải mãi đến năm 1985, hai giáo sư Leonard Florn (Đại học New York) và Aran Safir (Đại học Connecticut) mới được cấp bằng sáng chế liên quan đến “Công nghệ nhận diện mống mắt”. Ngay sau đó, tiến sỹ John Daugman (Đại học Harvard) đã được thuê để viết thuật toán nhận diện mống mắt. Với sự nỗ lực của cả ba, thử nghiệm nhận diện mống mắt được thực hiện bởi Cơ quan phòng thủ nguyên tử (DNA) của Mỹ vào năm 1995 đã thành công tốt đẹp.
Trong khi đó, ý tưởng về công nghệ nhận diện võng mạc đã được đưa ra trên một cuốn tạp chí Y học vào năm 1935. Khi công nghệ bắt kịp thời đại, ý tưởng này mới có cơ hội được triển khai và đến năm 1976, tập đoàn EyeDentify mới bắt đầu phát triển công nghệ này. Hiện tại, các bằng sáng chế liên quan đến hai công nghệ này đã được cấp cho nhiều công ty, tập đoàn với mục đích thương mại hóa.
Công nghệ nhận diện mắt
Quá trình nhận diện mống mắt được thực hiện bằng cách sử dụng máy chiếu bước sóng nhìn thấy được hoặc tia cận hồng ngoại vào mắt người. Khi máy quét chiếu vào mắt, máy tính sẽ xác định các vị trí gồm đồng tử, mống mắt, lông mi, mí mắt, qua đó tìm ra các tham số như tần số, biên độ, phi. Máy tính sẽ phân tích các thông số này và biên dịch thành các dòng lệnh.
Phương pháp nhận diện mống mắt được đánh giá là có độ chính xác cao so với các phương pháp nhận diện sinh trắc học khác, khi mống mắt có tới 266 điểm đặc trưng riêng biệt, so với chỉ 13 đến 60 điểm đặc trưng của các loại khác như vân tay, khuôn mặt, giọng nói. Hơn thế nữa, mắt người được cho là không thay đổi theo thời gian và môi trường. Thậm chí là sau phẫu thuật mắt hay đối với những người khiếm thị hoặc đeo kính, quét mống mắt không gây ảnh hưởng tới mắt hay bị suy giảm độ chính xác. Trong khi đó, quá trình nhận diện võng mạc cũng được thực hiện tương tự như nhận diện mống mắt. Điểm khác biệt ở đây là quá trình xử lý, khi các thông tin cần thu thập cho việc nhận diện võng mạc là các mạch máu.
Lính Mỹ sử dụng công cụ quét mống mắt tại Afghanistan.
Ứng dụng
Phương pháp nhận diện mắt được thực hiện khi các phương pháp nhận diện khác không thể thực hiện được như dấu vân tay bị mờ do lao động, giọng nói, khuôn mặt bị thay đổi. Ngoài ra, mặc dù võng mạc có thể bị thay đổi do các bệnh như tiểu đường, tăng nhãn áp, tuy nhiên về cơ bản võng mạc không thay đổi trong suốt cuộc đời con người. Các nhà khoa học tin tưởng rằng đây là phương pháp nhận diện có độ chính xác cao nhất với tỷ lệ sai sót chỉ là 1 trên 1 triệu với khả năng phân biệt được cả các cặp sinh đôi.
Điểm khó khăn khi triển khai phương pháp nhận diện võng mạc là chi phí cho trang thiết bị quá cao, quá trình nhận diện tốn thời gian và vì thế phương pháp này thường được ứng dụng trong các cơ sở nghiên cứu, khu vực quân sự, nơi có yêu cầu đặc biệt về bảo mật. Trong khi đó, phương pháp nhận diện mống mắt lại dễ dàng được triển khai trong nhiều lĩnh vực, ở nhiều nơi trên thế giới nhờ chi phí giá thành không quá cao. Nước Anh đang từng bước hoàn thành hệ thống nhận diện mống mắt để triển khai trong giai đoạn 2, trong khi các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất (UAE) đã triển khai hệ thống này trên toàn lãnh thổ từ năm 2001.
Kết
Cũng như các phương pháp nhận diện sinh trắc học khác, nhận diện mắt không tránh khỏi những ảnh hưởng do bệnh lý con người gây ra, như đục thủy tinh thể, loạn thị, khiến việc kiểm tra nhận diện thu được kết quả không chính xác. Đây là một phương pháp bảo mật được ứng dụng nhiều trong các lĩnh vực có yêu cầu bảo mật cao như ngân hàng, quân đội, chính phủ, tuy nhiên, con đường để phương pháp này được ứng dụng trong tất cả các lĩnh vực của cuộc sống vẫn còn rất xa xôi.
DARKLORD480